Ngành chăn nuôi của nước ta hiện nay 2019-2022- (P2): Con giống và thức ăn

1547 lượt xem

Công tác quản lý chăn nuôi lợn

Công tác quản lý chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn, tại Việt Nam được triển khai theo hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, Quy chuẩn kỹ thuật và Tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia, hình thành một cơ sở pháp lý vững chắc và hiệu quả. Hệ thống này bao gồm nhiều văn bản quan trọng như Luật Chăn nuôi năm 2018, được điều chỉnh và bổ sung thông qua các Nghị định hướng dẫn Luật, như Nghị định số 13/2020/NĐ-CP và Nghị định số 46/2022/NĐ-CP của Chính phủ. Ngoài ra, Nghị định số 14/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về chăn nuôi, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tuân thủ và kỷ luật ngành chăn nuôi.

Cùng với đó, hệ thống các Thông tư như Thông tư số 20/2019/TT-BNNPTNT và Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và PTNT quy định việc cập nhật, khai thác và quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về chăn nuôi, cũng như hướng dẫn một số điều của luật chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật nuôi, đã tạo ra một hệ thống chặt chẽ, nhất quán để đảm bảo quản lý hiệu quả trong ngành chăn nuôi.

Không chỉ có vậy, hệ thống này còn bao gồm 60 Tiêu chuẩn quốc gia và 34 Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về lĩnh vực chăn nuôi, đóng vai trò quan trọng trong việc đặt ra những tiêu chí chất lượng và an toàn cho sản phẩm chăn nuôi. Tổng cục Thống kê đã tiến hành cập nhật thông tin và tổng hợp số liệu để đảm bảo rằng ngành chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn, được quản lý và phát triển một cách bền vững và hiệu quả. Điều này không chỉ đảm bảo an ninh thực phẩm mà còn giữ vững uy tín và xuất khẩu của ngành chăn nuôi Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Các yếu tố ảnh hưởng

Về con giống

Trải qua những biến động qua các năm, đàn lợn giống và tổng đàn lợn nái hiện đang duy trì sự ổn định ấn tượng, với con số khoảng 3,0 triệu con lợn nái. Tình hình của tổng đàn nái cấp giống, bao gồm cả đàn cụ kỵ và ông bà, dao động trong khoảng từ 109,000 đến 138,000 con.

Chi tiết hơn, trong năm 2022, tổng đàn nái trên toàn quốc đạt hơn 3,0 triệu con, chiếm 10,4% tổng đàn lợn, giảm 0,5% so với cùng kỳ năm 2021. Trong tổng số này, đàn cụ kỵ và ông bà chơi vai trò quan trọng, với nái cụ kỵ chiếm khoảng 15% và nái ông bà chiếm 85%, đạt tổng cộng 137,000 con (chiếm 4,5% tổng đàn nái). Đặc biệt, lợn đực giống đã có bước tăng đáng kể, ước đạt 74,9 nghìn con, tăng 17% so với năm 2021. Những con số này thể hiện sự điều chỉnh linh hoạt và phản ánh sự quan tâm và đầu tư của ngành chăn nuôi lợn trong việc phát triển và duy trì sự ổn định của đàn lợn giống tại Việt Nam.

Cơ cấu đàn lợn nái của Việt Nam phân bố theo các vùng sinh thái qua các năm (ĐVT triệu con – nguồn Tổng cục Thống kê)
Cơ cấu đàn lợn nái của Việt Nam phân bố theo các vùng sinh thái qua các năm (ĐVT triệu con – nguồn Tổng cục Thống kê)

Trong thời kỳ gần đây, Việt Nam đã tích cực nhập khẩu các nguồn gen lợn cao cấp từ những nước uy tín như Pháp, Mỹ, Canada, Thái Lan, Đài Loan, và Đan Mạch, trong đó có các dòng giống nổi tiếng như Landrace, Yorkshire, Duroc, và Pietrain. Những nguồn gen này đã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra đàn lợn nái sản xuất chất lượng. Hiện nay, đàn lợn nái sản xuất chủ yếu sử dụng các dòng tổng hợp, kết hợp giữa nguồn gen khác nhau trong cùng một giống hoặc lai giữa các giống khác nhau, chiếm tỷ lệ lớn đến 80%. Đồng thời, đàn lợn nái lai giữa lợn ngoại với lợn nội cũng như đàn lợn nái nội thuần đều chiếm tỷ lệ quan trọng là 20%. Mỗi năm, khoảng 25% đàn lợn nái được thay thế, đánh dấu một chu kỳ cập nhật và nâng cấp đàn lợn.

Trong giai đoạn từ 2017 đến 2022, 89% số lượng lợn giống cụ kỵ và ông bà sản xuất trong nước được sử dụng để thay thế đàn, còn 11% được nhập khẩu, đóng vai trò là nguồn máu mới để cải tiến năng suất giống lợn trong nước. Việt Nam hiện có 467 cơ sở sản xuất và cung cấp lợn giống, trong đó có 240 cơ sở nuôi giữ lợn nái giống cụ kỵ (GGP) và ông bà (GP). Trong tổng số này, các doanh nghiệp trong nước chiếm 48,3%, với tổng đàn nái trên 48 nghìn con, trong khi các doanh nghiệp nước ngoài (FDI) chiếm 51,6%, với tổng đàn nái trên 89 nghìn con. Năm 2022, số lượng lợn đực giống đạt khoảng 74,9 nghìn con, trong đó, 48,0% được sử dụng để phối giống nhân tạo và 52,0% nuôi trong dân.

Công tác lai tạo và chọn giống lợn trong giai đoạn này đã ghi nhận nhiều tiến triển tích cực. Đặc biệt, các giống lợn như Landrace, Yorkshire, và Duroc của ông bà cao sản có số con cai sữa/nái/năm đáng chú ý, dao động từ 24,7 đến 28,5 con, đồng thời, lợn bố mẹ của những dòng này cũng đạt hiệu suất sản xuất ấn tượng với số con cai sữa/nái/năm từ 27,5 đến 28,5 con. Những giống lợn này được tạo ra từ các nguồn gen lợn Landrace, Yorkshire, và Duroc từ các nước như Mỹ, Pháp, Đan Mạch, Đài Loan, và Canada, đặc biệt thích ứng với điều kiện nuôi tại Việt Nam. Công tác chọn tạo giống cũng chú trọng đến lợn Meishan, tạo ra các giống chuyên hóa với số con cai sữa/nái/năm từ 23,2 đến 26,1 con/lứa, và lợn đực giống có tăng trưởng 850 gam/ngày, mang lại hiệu suất thực sự ấn tượng cho ngành chăn nuôi lợn tại Việt Nam.

Về thức ăn chăn nuôi

Trong nhiều năm liền, sản lượng Thức ăn chăn nuôi công nghiệp (TACN) đã trải qua sự biến động đáng chú ý. Năm 2018, sản lượng TACN đạt 18,8 triệu tấn, sau đó tăng lên 21,9 triệu tấn vào năm 2021, nhưng giảm xuống còn 20,5 triệu tấn trong năm 2022. Trong giai đoạn từ 2019 đến 2020, cơ cấu sản lượng TACN đã có những biến động đặc trưng, với sự giảm dần về TACN cho lợn (do ảnh hưởng lớn từ Dịch tả lợn châu Phi gây thiệt hại cho đàn lợn) và tăng dần về TACN cho gia cầm. Tuy nhiên, từ giai đoạn 2021 đến 2022, cơ cấu sản lượng TACN đã có sự thay đổi đáng chú ý, diễn ra theo hướng tăng dần về TACN cho lợn và giảm dần về TACN cho gia cầm. Chi tiết về thông tin này có thể được xem trong Bảng 3. Điều này thể hiện sự linh hoạt và điều chỉnh của ngành sản xuất TACN để đáp ứng nhu cầu đặc biệt của ngành chăn nuôi, đồng thời thích ứng với biến động và thách thức từ môi trường sản xuất.

Bảng 3. Cơ cấu sản lượng TACN giai đoạn 2019-2022 theo vật nuôi

TT Nhóm TĂCN 2019 2020 2021 2022
Sản lượng Tỷ lệ (%) Sản lượng Tỷ lệ (%) Sản lượng Tỷ lệ (%) Sản lượng Tỷ lệ (%)
1 Thức ăn cho lợn 9,4 49,7 8,9 43,8 12,2 55,8 11,4 56,3
2 Thức ăn cho gia cầm 8,9 47,1 10,7 52,7 8,8 40,4 8,2 40,1
3 Thức ăn cho vật nuôi khác 0,6 3,2 0,6 3,0 0,9 3,8 0,9 4,6
  Tổng số 18.9   20,3   21.9   20.5  

Nhu cầu nguyên liệu phục vụ sản xuất Thức ăn chăn nuôi (TACN) tại Việt Nam ngày càng tăng lớn, tuy nhiên, khả năng sản xuất nguyên liệu trong nước vẫn đang đối mặt với những hạn chế, không đáp ứng đủ nhu cầu của ngành chăn nuôi, đặc biệt là ngành chăn nuôi lợn. Hàng năm, Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 20 triệu tấn nguyên liệu TACN, bao gồm ngô (7,3 triệu tấn), lúa mì và lúa mạch (1,5 triệu tấn), khô dầu các loại (4,7 triệu tấn), DDGS (phụ phẩm của quá trình sản xuất ethanol – 1,0 triệu tấn), cám các loại (550 nghìn tấn), và một số nguyên liệu nguồn gốc động vật như bột thịt xương, bột gia cầm, bột lông vũ, bột máu (1,8 triệu tấn).

Đối mặt chủ yếu với nguồn nguyên liệu nhập khẩu, giá TACN trong nước liên tục chịu tác động trực tiếp từ sự biến động của giá nguyên liệu TACN trên thị trường thế giới. Trong giai đoạn từ 2015 đến tháng 10 năm 2020, giá TACN trong nước duy trì sự ổn định, thậm chí có thời điểm giảm thấp, như vào năm 2017. Tuy nhiên, từ cuối năm 2020 đến nay, giá nguyên liệu TACN tăng cao, cả trong nước và nhập khẩu, dẫn đến việc giá sản phẩm TACN thành phẩm cũng tăng mạnh (chi phí nguyên liệu chiếm khoảng 85% tổng chi phí của giá thành sản phẩm TACN). Sự tăng giá liên tục này đã ảnh hưởng đáng kể đến ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng.

Trong 6 tháng đầu năm 2023, giá hầu hết nguyên liệu TACN có xu hướng giảm so với mặt bằng chung năm 2022. Cụ thể, Lysine giảm 18,7%, ngô giảm 4%, cám gạo giảm 0,5%, và DDGS giảm 0,2%. Tuy nhiên, giá khô dầu đậu tương vẫn duy trì ở mức cao so với năm 2022 (tăng 1,7%). Mặc dù giá TACN thành phẩm đã giảm từ tháng 3/2023, nhưng vẫn cao hơn 1,1-2,1% so với năm 2022.

Tổng quan, mặc dù có dấu hiệu giảm giá trong vài tháng gần đây, giá TACN vẫn duy trì ở mức cao so với giai đoạn trước dịch Covid-19 (năm 2020), ảnh hưởng đáng kể đến giá TACN thành phẩm trong 6 tháng đầu năm 2023, với sự tăng cao từ 37,1-43,0% so với giai đoạn trước dịch. Chi tiết về thông tin này được minh họa rõ trong Bảng 4.

Bảng 4. Giá một số nguyên liệu và TACN thành phẩm giai đoạn 2020 – 2023 (ĐVT đồng/kg)

TT Loại nguyên liệu Năm

2020

Năm

2021

Năm

2022

6 tháng 2023
Giá % so với  2022 % so với  2020
1 Ngô hạt 5.621 7.617 8.866 8.514 -4,0 51,5
2 Khô dầu đậu tương 10.184 13.091 14.520 14.76 1,7 44,9
4 Cám gạo chiết ly 4.427 4.936 6.294 6.265 -0,5 41,5
6 Lysine HCl 28.181 35.053 36.639 29.791 -18,7 5,7
7 Bã ngô (DDGS) 6.305 8.848 9.834 9.815 -0,2 55,7
8 TAHH cho lợn thịt vỗ béo trên 60 kg 9.362 10.900 13.107 13.386 2,1 43,0
9 TAHH cho cho gà thịt lông màu 9.496 10.800 12.880 13.022 1,1 37,1
10 TAHH cho cho gà thịt lông trắng 9.961 11.200 13.588 13.741 1,1 37,9

 

Lưu ý nhỏ: Nội dung trên website được tổng hợp từ nhiều nguồn tin khác nhau. Nếu có bất kỳ tranh chấp nội dung liên quan tới bản quyền, vui lòng gửi E-mail tới: vieclamchannuoi@gmail.com hoặc gọi: 0924.899.333. Chân thành cảm ơn!